Lịch sử điều trị ung thư: Hóa trị
Trong Thế chiến II, những quân nhân hải quân tiếp xúc với khí mù tạt trong quá trình hoạt động quân sự đã được phát hiện có những thay đổi độc hại trong các tế bào tủy xương phát triển thành các tế bào máu. Trong cùng thời gian đó, Quân đội Hoa Kỳ đã nghiên cứu một số hóa chất liên quan đến khí mù tạt để phát triển các tác nhân hiệu quả hơn cho chiến tranh và cũng phát triển các biện pháp bảo vệ. Trong quá trình làm việc đó, một hợp chất gọi là nitơ mù tạt đã được nghiên cứu và phát hiện có tác dụng chống lại ung thư hạch bạch huyết gọi là u lympho . Tác nhân này đóng vai trò là mô hình cho một loạt dài các tác nhân tương tự nhưng hiệu quả hơn (được gọi là tác nhân alkyl hóa ) có tác dụng tiêu diệt các tế bào ung thư phát triển nhanh chóng bằng cách làm hỏng DNA của chúng.
Không lâu sau khi phát hiện ra mù tạt nitơ, Sidney Farber ở Boston đã chứng minh rằng aminopterin, một hợp chất liên quan đến vitamin axit folic, đã tạo ra sự thuyên giảm ở trẻ em mắc bệnh bạch cầu cấp tính . Aminopterin đã chặn một phản ứng hóa học quan trọng cần thiết cho quá trình sao chép DNA. Loại thuốc đó là tiền thân của methotrexate, một loại thuốc điều trị ung thư được sử dụng phổ biến hiện nay. Kể từ đó, các nhà nghiên cứu khác đã phát hiện ra các loại thuốc ngăn chặn các chức năng khác nhau trong quá trình tăng trưởng và sao chép tế bào. Kỷ nguyên của hóa trị đã bắt đầu.
Ung thư di căn lần đầu tiên được chữa khỏi vào năm 1956 khi methotrexate được sử dụng để điều trị một khối u hiếm gặp gọi là ung thư biểu mô màng đệm. Trong nhiều năm qua, các loại thuốc hóa trị (chemo) đã điều trị thành công cho nhiều người mắc bệnh ung thư. Sự thuyên giảm lâu dài và thậm chí chữa khỏi cho nhiều bệnh nhân mắc bệnh Hodgkin và bệnh ALL ở trẻ em (bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính) được điều trị bằng hóa trị lần đầu tiên được báo cáo vào những năm 1960. Ung thư tinh hoàn đã được chữa khỏi trong thập kỷ tiếp theo. Nhiều loại ung thư khác có thể được kiểm soát bằng hóa trị trong thời gian dài, ngay cả khi chúng không được chữa khỏi. Ngày nay, có một số phương pháp tiếp cận để cải thiện hoạt động và giảm tác dụng phụ của hóa trị. Bao gồm:
- Thuốc mới, sự kết hợp thuốc mới và kỹ thuật cung cấp thuốc mới
- Các phương pháp tiếp cận mới nhắm mục tiêu thuốc cụ thể hơn vào các tế bào ung thư (như liệu pháp liposome và liệu pháp kháng thể đơn dòng) để tạo ra ít tác dụng phụ hơn
- Thuốc để giảm tác dụng phụ, như các yếu tố kích thích khuẩn lạc, thuốc bảo vệ hóa học (như dexrazoxane và amifostine) và thuốc chống nôn (để giảm buồn nôn và nôn)
- Các tác nhân khắc phục tình trạng kháng nhiều loại thuốc (khi ung thư không đáp ứng với các loại thuốc điều trị thông thường)
Vào đầu thế kỷ 20, chỉ những khối u nhỏ và khu trú đủ để có thể phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn mới có thể chữa khỏi. Sau đó, xạ trị được sử dụng sau phẫu thuật để kiểm soát các khối u nhỏ không thể cắt bỏ bằng phẫu thuật. Cuối cùng, hóa trị được bổ sung để tiêu diệt các khối u nhỏ đã lan rộng ra ngoài tầm với của bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ xạ trị. Hóa trị được sử dụng sau phẫu thuật để tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư nào còn sót lại trong cơ thể được gọi là liệu pháp bổ trợ . Liệu pháp bổ trợ được thử nghiệm đầu tiên ở ung thư vú và thấy có hiệu quả. Sau đó, nó được sử dụng trong ung thư ruột kết , ung thư tinh hoàn và các loại ung thư khác.
Một khám phá quan trọng là lợi thế của việc sử dụng nhiều loại thuốc hóa trị (được gọi là hóa trị kết hợp) so với các tác nhân đơn lẻ. Một số loại bệnh bạch cầu và u lympho phát triển rất nhanh (các khối u liên quan đến các tế bào của tủy xương và hạch bạch huyết) phản ứng rất tốt với hóa trị kết hợp, và các thử nghiệm lâm sàng đã dẫn đến sự cải thiện dần dần các kết hợp thuốc được sử dụng. Nhiều khối u trong số này có thể được chữa khỏi ngày nay bằng hóa trị kết hợp thích hợp.
Phương pháp tiếp cận điều trị bệnh nhân đã trở nên khoa học hơn với việc đưa vào thử nghiệm lâm sàng trên diện rộng trên toàn thế giới. Thử nghiệm lâm sàng so sánh các phương pháp điều trị mới với các phương pháp điều trị tiêu chuẩn và góp phần hiểu rõ hơn về lợi ích và rủi ro của phương pháp điều trị. Chúng được sử dụng để kiểm tra các lý thuyết về ung thư được học trong phòng thí nghiệm khoa học cơ bản và cũng kiểm tra các ý tưởng rút ra từ các quan sát lâm sàng trên bệnh nhân ung thư. Chúng cần thiết cho sự tiến bộ liên tục.
Xem thêm